Chương 8: Ăn hay bị ăn

Thứ Bảy, 30/11/1991 (Henry 28 tuổi, Clare 20 tuổi)

HENRY: Clare mời tôi đến ăn tối ở căn hộ của cô ấy. Charisse, bạn cùng phòng của Clare và Gomez, bạn trai của Charisse cũng sẽ có mặt. Đúng 6 giờ 59 phút tối theo giờ chuẩn Trung Mỹ, tôi đứng ngoài hành lang nhà Clare trong bộ diện ngày Chủ Nhật bảnh chọe nhất của mình, ngón tay đặt trên chuông cửa, giò lan Nam Phi vàng thơm phức và chai Cabernet Úc nằm trên tay còn lại, tim tôi nhảy lên nằm ở miệng. Tôi chưa từng đến căn hộ của Clare, cũng chưa từng gặp người bạn nào của cô ấy. Tôi không biết phải trông đợi gì.

Chuông cửa kêu lên một tiếng ghê rợn, tôi mở cửa. “Lên đi!” giọng đàn ông trầm la lớn. Tôi leo lên bốn dãy cầu thang một cách nặng nhọc. Chủ nhân của giọng nói ban nãy là một gã cao ráo tóc vàng hoe vuốt ngược ra sau một cách chỉn chu nhất trên đời, tay bập bùng điếu thuốc và mặc áo phông Solidarnosc. Anh ta trông rất quen nhưng tôi không thể nhớ ra đã gặp ở đâu. Với một người tên Gomez, anh ta khá… bóng bẩy. Về sau tôi được biết tên thật của anh ta là Jan Gomolinski.

“Xin chào, nhóc thủ thư!” Gomez oang oang nói.

“Chào anh bạn!” Tôi đáp lại và đưa giỏ hoa cùng chai rượu cho anh ta. Chúng tôi nhìn nhau chằm chằm, nỗ lực giữ hòa khí, và bằng một cái vung tay mạnh mẽ Gomez dẫn đường cho tôi vào trong căn hộ.

Đó là một trong những căn hộ dạng ống dài bất tận từ những năm hai mươi - hành lang dài nối các phòng với nhau. Có hai phong cách kiến trúc ở đây, tân thời và Victoria. Điều này được thể hiện hết mức có thể qua những chiếc ghế thêu cổ với chân ghế được chạm khắc chi chít bên cạnh các bức tranh Elvia bằng nhung. Tôi có thể nghe thấy bản I Got It Bad and That Ain’t Good vang lên từ cuối hành lành, và Gomez dẫn tôi đi theo hướng đó.

Clare và Charisse đang ở trong bếp. “Những con mèo bé bỏng của anh, anh đã mang đồ chơi mới đến cho bọn em đây”, Gomez ngân nga. “Nó sẽ trả lời với cái tên Henry, nhưng bọn em có thể gọi nó là Nhóc Thủ Thư.” Tôi bắt gặp ánh mắt của Clare. Cô ấy nhún vai và ghé má cho tôi hôn; tôi ban cho cô ấy một cú mổ trinh trắng vào má rồi quay sang bắt tay Charisse, một người lùn và tròn quay dễ chịu, mái tóc xoăn dài. Cô ấy có khuôn mặt hiền hậu đến mức tôi chỉ muốn kể ngay cho cô ấy nghe một bí mật nào đó, bất kể là gì, chỉ để xem phản ứng của cô ấy ra sao. Cô ấy là một Madona nhỏ, người Philippin. Bằng giọng Đừng-Giỡn-Mặt-Với-Bà ngọt ngào, cô ấy nói, “Ôi, Gomez, im miệng đi. Chào anh, Henry. Em là Charisse Bonavant. Đừng bận tâm đến Gomez nhé, em giữ anh ấy bên mình chỉ để dùng cho những lúc cần khuân vác vật nặng thôi.”

“Và những cuộc ân ái. Đừng quên khoản đó chứ”, Gomez nhắc. Anh ta nhìn tôi. “Bia?”

“Được thôi.” Gomez vùi đầu vào tủ lạnh rồi đưa cho tôi một chai Blatz. Tôi cạy nắp và làm một hơi dài. Căn bếp trông như thể nhà máy bột Pillsbury mới nổ tung ở đây. Clare nhìn về hướng tôi đang ngó chằm chằm. Tôi chợt nhớ ra cô ấy không biết nấu ăn.

“Công trình đang trong giai đoạn thực thi”, Clare nói.

“Đây là bước nền móng”, Charisse nói.

“Chúng ta sẽ được ăn chứ?” Gomez nói.

Tôi nhìn hết người này đến người kia, và tất cả chúng tôi phá lên cười. “Có ai trong ba người biết nấu ăn không?”

“Không.”

“Gomez biết nấu cơm.”

“Chỉ Rice-A-Roni thôi.”

“Clare biết cách gọi pizza.”

“Và món Thái, em biết gọi cả món Thái nữa.”

“Charisse biết ăn.”

“Im đi, Gomez”, Charisse và Clare đồng thanh.

“Hừm… món đó sẽ là gì?” Tôi hỏi, hất đầu về bãi chiến trường trên bàn. Clare đưa cho tôi mẩu giấy được cắt ra từ tạp chí. Đó là công thức món thịt gà và cơm ý, nấm hương với bí đỏ và sốt hạt thông. Nó được cắt ra từ Gourmand, có khoảng 20 nguyên liệu. “Em có đủ các thứ này không?”

Clare gật đầu. “Khoản đi chợ thì em có thể làm. Chế biến mới là phần rắc rối.”

Tôi xem xét đống lộn xộn kĩ hơn. “Anh có thể sẽ nấu được món gì đó từ đống này.”

“Anh biết nấu ăn?” Tôi gật đầu.

“Cậu ta biết nấu ăn! Bữa tối được cứu rồi! Uống thêm chai bia nữa!” Gomez hoan hỉ. Charisse có vẻ nhẹ nhõm, mỉm cười trìu mến với tôi. Clare, người đang rụt rè sợ hãi nãy giờ, khép nép lại gần tôi và thì thầm, “Anh không giận chứ?” Tôi hôn cô ấy, chỉ lâu hơn một chút so với nụ hôn lịch sự trước mặt mọi người. Tôi đứng thẳng lại, cởi áo khoác và kéo ông tay áo lên. “Đưa cho anh cái tạp dề”, tôi ra lệnh. “Anh, Gomez, mở chai rượu ra. Clare, lau những thứ bị bắn tung tóe đó đi, chúng bắt đầu đóng tảng rồi. Charisse, em vui lòng dọn bàn ăn nhé?”

Một tiếng và 43 phút sau, chúng tôi ngồi quanh bàn trong phòng ăn và thưởng thức món cơm gà hầm với sốt bí. Món nào cũng rất nhiều bơ. Chúng tôi đều say bí tỉ.

CLARE: Suốt khoảng thời gian Henry nấu bữa tối, Gomez đứng quanh phòng bếp pha trò, hút thuốc, uống bia và cứ mỗi khi không ai để ý là anh ấy lại làm mặt nhăn nhó với tôi. Cuối cùng Charisse cũng nhìn thấy và dùng ngón tay vạch một đường quanh cổ, thế là Gomez dừng lại. Chúng tôi nói chuyện về những điều nhạt nhẽo nhất: công việc, trường học, nơi chúng tôi lớn lên, và tất cả những điều người ta vẫn nói với nhau trong lần đầu gặp mặt. Gomez kể cho Henry nghe về công việc luật sư của anh ấy, đại diện cho những đứa trẻ bị bỏ rơi và bạo hành - những đứa trẻ được Bang giám hộ. Charisse tiêu khiển cho chúng tôi bằng các câu chuyện về chiến tích của cậu ấy ở Lusus Naturae, một công ty phần mềm bé tí teo đang tìm cách khiến máy tính hiểu những gì con người nói với chúng, và tác phẩm nghệ thuật của cậu ấy - những bức tranh số. Henry kể chuyện về thư viện Newberry và những người kỳ quái đến đọc sách.

“Có phải thư viện Newberry thực sự có cuốn sách làm bằng da người không?” Charisse hỏi Henry.

“Phải. Cuốn Biên niên sử Nawat Wuzeer Hyderabed. Nó được tìm thấy trong cung điện của vua Delhi vào năm 1857. Khi nào rảnh đến thư viện, anh sẽ lấy cho em xem.”

Charisse rùng mình mỉm cười. Henry đang khuấy món hầm. Khi anh ấy nói, “Giờ ăn đến rồi”, tất cả chúng tôi túm tụm lại quanh bàn. Suốt từ nãy đến giờ Gomez và Henry không ngừng uống bia, còn tôi và Charisse uống rượu vang, Gomez chăm chút rót thêm cho chúng tôi, chưa ai ăn uống gì. Nhưng tôi không nhận ra mình đã say đến mức nào cho đến khi suýt chút nữa ngồi hụt khỏi chiếc ghế Henry kéo ra cho tôi, và Gomez thì suýt đốt cháy tóc mình khi đang châm nến.

Gomez nâng cốc lên. “Vì cách mạng!”

Charisse và tôi nâng cốc, Henry cũng vậy. “Vì cách mạng!” Chúng tôi bắt đầu ăn nhiệt tình. Món cơm Ý trơn và mềm, sốt bí ngọt ngào, thịt gà bơi trong bơ. Nó ngon đến nỗi khiến tôi muốn khóc.

Henry xúc một miếng rồi chĩa cái dĩa của anh ấy về phía Gomez. “Cách mạng nào?”

“Hả?”

“Chúng ta đang uống mừng cuộc cách mạng nào?” Charisse và tôi nhìn nhau cảnh giác, nhưng đã quá muộn.

Gomez mỉm cười và tim tôi đập trật nhịp, “Cuộc cách mạng tiếp theo.”

“Cuộc cách mạng nơi giai cấp vô sản nổi dậy và những kẻ giàu có bị nuốt chửng, còn giai cấp tư bản bị lật đổ vì một xã hội không phân chia giai cấp?”

“Chính nó.”

Henry nháy mắt với tôi. “Như vậy thì khó cho Clare quá. Mà anh định làm gì với tầng lớp trí thức?”

“Ồ”, Gomez nói, “nhiều khả năng chúng tôi cũng sẽ ăn họ. Nhưng chúng tôi sẽ giữ cậu lại làm đầu bếp. Mấy món này tuyệt quá đi mất.”

Charisse chạm vào tay Henry đảm bảo. “Bọn em sẽ không thực sự ăn thịt ai đâu”, cậu ấy nói. “Bọn em sẽ chỉ phân chia lại tài sản của họ mà thôi.”

“Thật nhẹ nhõm khi nghe em nói vậy”, Henry đáp. “Anh không muốn phải làm thịt Clare đâu.”

Gomez nói, “Đó là điều đáng tiếc. Tôi chắc rằng Clare sẽ rất ngon.”

“Em tự hỏi không biết cách nấu thịt người như thế nào?” Tôi nói. “Có cuốn sách dạy nấu thịt người nào không nhỉ?”

“Món Sống và Món Chín”, Charisse nói.

Henry phản đối. “Đó không thực sự là sách hướng dẫn. Anh không nghĩ Levi-Strauss đưa ra bất kì công thức nào.”

“Chúng ta có thể tạo ra một công thức”, Gomez nói, lấy thêm cho mình một miếng thịt gà nữa. “Clare nấu với nấm Porcini và sốt cà chua kèm mì sợi. Hoặc ngực Clare sốt cam. Hoặc…”

“Này”, tôi nói. “Nếu em không muốn bị ăn thì sao?”

“Xin lỗi, Clare”, Gomez nói nghiêm trang. “Anh sợ rằng em phải bị làm thịt vì lợi ích cao cả hơn.”

Henry bắt gặp ánh mắt của tôi và mỉm cười. “Đừng lo, Clare, nếu cách mạng đến, anh sẽ giấu em ở thư viện Newberry. Em có thể sống giữa các giá sách và anh sẽ cho em ăn Snickers và Doritos lấy từ phòng ăn trưa của nhân viên. Họ sẽ không bao giờ tìm được em.”

Tôi lắc đầu. “Thế còn Đầu tiên phải giết hết lũ luật sư thì sao?”

“Không”, Gomez nói. “Em sẽ chẳng thể làm gì nếu không có luật sư. Cách mạng sẽ hỗn loạn chỉ sau mười phút nếu không có luật sư ở đó để giữ cho mọi việc hoạt động trong khuôn khổ.”

“Nhưng bố em là luật sư”, tôi nói với anh ấy, “nên bọn anh sẽ không thể ăn cả nhà em được.”

“Ông ấy là dạng luật sư sai đường lối”, Gomez nói. “Ông ấy đấu tranh vì lợi ích của người giàu. Còn anh, ngược lại, đại diện cho trẻ em nghèo bị đàn áp…”

“Ôi, im đi, Gomez”, Charisse nói. “Anh đang làm tổn thương Clare đấy.”

“Đâu có! Clare muốn bị làm thịt vì cách mạng, có phải không, Clare?”

“Không.”

“Ồ.”

“Thế còn Mệnh Lệnh Tuyệt Đối thì sao?” Henry hỏi.

“Gì cơ?”

“Anh biết đấy, Quy Luật Vàng. Đứng ăn người khác trừ phi bạn sẵn sàng để bị ăn.”

Gomez cạy móng tay bằng một nhánh của chiếc dĩa. “Cậu không nghĩ rằng Ăn hoặc Bị Ăn mới thực sự khiến thế giới xoay vòng sao?”

“Phải, hầu hết là vậy. Nhưng không phải chính bản thân anh là một ví dụ cho lòng vị tha sao?” Henry hỏi.

“Thì là vậy, nhưng tôi được nhiều người biết đến như một thằng đần nguy hiểm.” Gomez nói điều này bằng vẻ lạnh nhạt giả tạo, nhưng tôi có thể thấy anh ấy đang bị Henry làm cho lúng túng. “Clare”, anh ấy nói, “món tráng miệng thì sao nhỉ?”

“Ôi trời, suýt chút nữa em quên”, tôi nói rồi vội đứng dậy, nhanh đến nỗi phải bám lấy bàn để khỏi ngã. “Em sẽ đi lấy.”

“Anh giúp em”, Gomez nói và theo tôi vào trong bếp. Tôi đang đi giày cao gót, khi bước vào bếp tôi vấp phải gờ cửa và loạng choạng ngả về phía sau, Gomez túm lấy tôi. Trong giây lát chúng tôi tựa sát vào nhau, tôi có thể cảm nhận được hai tay anh ấy đang đặt trên hông mình, nhưng rồi anh ấy để tôi đi. “Em say rồi, Clare”, Gomez bảo tôi.

“Em biết. Anh cũng vậy.” Tôi bấm nút pha cà phê và từng giọt đen đặc bắt đầu nhỏ xuống ấm. Tôi tựa người vào mặt bàn, cẩn thận gỡ giấy kiếng ra khỏi đĩa bánh sô-cô-la hạnh nhân. Gomez đứng rất gần phía sau, nhướng người sang, anh ấy nói khẽ, hơi thở của anh ấy khiến tai tôi nhột nhột, “Cậu ấy là một người…”

“Ý anh là gì?”

“Cái gã mà anh đã cảnh báo em. Henry, cậu ấy là gã đó…”

Charisse bước vào bếp và Gomez nhảy xa ra khỏi tôi, mở tủ lạnh. “Này”, Charisse nói. “Tớ giúp được gì không?”

“Đây, cậu mang cà phê lên nhé…” Chúng tôi lóng ngóng mang nào cốc, dĩa, bánh và đưa chúng an toàn đến bàn ăn. Henry đang đợi với vẻ mặt anh ấy vẫn thường có mỗi khi tôi mang đồ ăn đến cho anh ấy ở đồng cỏ… nhưng anh ấy không nhớ, anh ấy chưa từng đến đó. “thư giãn đi”, tôi nói. “Chỉ là bánh hạnh nhân thôi. Đến cả em cũng làm được mà.” Mọi người cười và ngồi xuống, Hóa ra bánh vẫn chưa chín. “Gỏi sô-cô-la hạnh nhân”, Charisse nói. “Kẹo mềm khuẩn Salmonella”, Gomez nói. “Tôi luôn thích bột nhào”, Henry nói và liếm ngón tay, Gomez cuốn một điếu thiếu, châm lửa và hít một hơi dài.

HENRY: Gomez châm thuốc và ngả người tựa lưng vào ghế. Có điều gì đó ở anh ta khiến tôi khó chịu. Có thể bởi thái độ sở hữu Clare mà anh ta thường tỏ ra, hoặc vì chủ nghĩa Mác xoàng xĩnh? Tôi chắc chắn đã gặp anh ta ở đâu đó. Quá khứ hay tương lai? Hãy cùng tìm hiểu. “Anh trông rất quen”, tôi nói với anh ta.

“Hả? Ồ, phải, tôi nghĩ chúng ta đã nhìn thấy nhau.”

Tôi nhớ rồi. “Iggy Pop ở nhà hát Riviera?”

Anh ta giật mình. “Phải. Cậu đã đi cùng cô gái tóc vàng, Ingrid Carmichel, tôi luôn thấy cậu với cô ấy.” Gomez và tôi cùng nhìn Clare. Cô ấy đang chăm chú nhìn Gomez, anh ta mỉm cười với cô ấy. Clare quay mặt đi, nhưng không nhìn vào tôi.

Charisse giải vây, “Anh đi xem Iggy mà không có em?”

Gomez nói, “Hôm đó em bận.”

Charisse bĩu môi hờn dỗi. “Cái gì em cũng bỏ lỡ”, cô ấy nói với tôi. “Em bỏ lỡ Patti Smith và giờ thì bà ấy đã giải nghệ. Em lỡ không xem lần cuối Talking Heads đi lưu diễn.”

“Patti Smith sẽ đi lưu diễn trở lại”, tôi nói.

“Thật sao? Làm sao anh biết?” Charisse hỏi. Clare và tôi nhìn nhau trao đổi.

“Anh chỉ đoán vậy thôi”, tôi nói. Chúng tôi bắt đầu khám phá khẩu vị âm nhạc của nhau và nhận ra tất cả đều yêu punk rock. Gomez kể cho chúng tôi nghe về lần gặp New York Dolls ở Florida ngay trước khi Johnny Thunders rời nhóm. Tôi miêu tả buổi nhạc hội Lene Lovich mà tôi được xem trong một lần du hành. Charisse và Clare phấn khích vì Violent Femmes sẽ chơi ở Aragon Ballrom trong vài tuần nữa và Charisse đã kiếm được vé miễn phí. Buổi tối kết thúc mà không có thêm sự kiện nào. Clare tiễn tôi xuống dưới. Chúng tôi đứng ở ngưỡng cửa, ranh giới giữa cửa trong và cửa ngoài.

“Em xin lỗi”, cô ấy nói.

“Ồ, không có gì. Buổi tối vui lắm, anh không ngại nấu ăn chút nào.”

“Không”, Clare nhìn xuống giày, nói, “ý em là về Gomez.”

Trời khá lạnh. Tôi quàng tay qua người Clare và cô ấy dựa vào tôi. “Gomez thì sao?” Tôi hỏi cô ấy. Cô ấy đang nghĩ gì đó. Nhưng rồi chỉ nhún vai nói, “Không có gì”, và tôi không hỏi thêm nữa. Chúng tôi hôn nhau. Tôi mở cửa ngoài, Clare mở cửa trong; tôi bước xuống đường, quay người lại nhìn. Clare vẫn đứng ở ngưỡng cửa nhìn tôi. Tôi đứng đó, muốn quay trở lại và ôm cô ấy vào lòng, muốn trở lên nhà cùng cô ấy. Clare quay người và bắt đầu đi lên, tôi đứng nhìn cho đến khi cô ấy đi khỏi tầm mắt.

Thứ Bảy, 14/12/1991 - Thứ Ba, 9/9/2000 (Henry 36 tuổi)

HENRY: Tôi đang đập cho gã béo say xỉn ở ngoại thành bán sống bán chết vì tội dám gọi tôi là pê-đê, rồi lại còn định đánh tôi để chứng minh quan điểm của hắn. Chúng tôi đang ở trong con hẻm cạnh nhà hát Vic. Tôi có thể nghe thấy tiếng bass của Smoking Popes vọng ra từ cửa hông nhà hát, trong khi đang đập vỡ mũi gã đần này rồi chuyển xuống làm thịt xương sườn hắn cho có hệ thống. Tôi đang trải qua một buổi tối thối rữa, và gã ngốc này đang phải chịu trận cho sự bực bội của tôi.

“Này, nhóc thủ thư.” Tôi tha cho gã thanh niên kì thị đồng tính đang rên rỉ, quay sang và thấy Gomez đang tựa thùng rác, mặt nhăn nhó.

“Chào chiến hữu.” Tôi tha cho gã thanh niên đang bị tôi hành hung, người đang trượt xuống đường cảm kích, gập làm đôi. “Khỏe chứ?” Tôi rất nhẹ nhõm khi nhìn thấy Gomez, vui mừng là đằng khác. Nhưng cậu ấy có vẻ không đồng cảm xúc.

“Chúa ạ, tôi không muốn làm phiền, nhưng người cậu đang làm gỏi là bạn tôi đấy.”

Dĩ nhiên không phải. “Hắn ta tự thỉnh cầu. Bước đến ngay trước mặt tớ và nói. ‘Thưa ông, tôi cần phải bị nện cho nhừ tử.’”

“Làm tốt lắm. Rất khéo kéo là khác.”

“Cảm ơn.”

“Không phiền nếu tôi đưa cậu Nick đây đến bệnh viện chứ?”

“Cứ tự nhiên.” Chết tiệt. Tôi đang định chiếm đoạt quần áo của Nick, đặc biệt là đôi giày của hắn, đôi Doc Martens mới tinh, đỏ đậm, hầu như chưa được sử dụng. “Gomez.”

“Hả?” Gomez đang khom người đỡ bạn của cậu ấy dậy, người mới khạc ra một cái răng vào đùi của chính hắn.

“Hôm nay ngày bao nhiêu?”

“14 tháng Mười Hai.”

“Năm nào?”

Cậu ấy nhìn tôi như thể cậu ấy có nhiều việc để làm hơn là giỡn với gã điên mất trí và vác Nick lên trong tư thế của một người lính cứu hỏa mà chắc hẳn phải khó nhọc lắm. Nick bắt đầu rên rĩ. “1991. Cậu chắc hẳn đang xỉn hơn vẻ bề ngoài.” Gomez bước ra khỏi con hẻm và biến mất theo hướng cửa ra vào của nhà hát. Tôi nhanh chóng tính nhẩm. Lúc này đang là không lâu sau khi tôi và Clare bắt đầu hẹn hò, bởi vậy tôi và Gomez hầu như chẳng biết nhau. Không trách cậu ấy ném cho tôi cái nhìn dò xét.

Gomez xuất hiện trở lại, rảnh rang hơn. “Tôi để cho Trent giải quyết. Cậu ấy là anh của Nick. Cậu ấy chẳng hài lòng cho lắm.” Chúng tôi bắt đầu đi dọc con hẻm về phía đông. “Thứ lỗi cho tôi vì phải hỏi, chàng thủ thư thân mến, nhưng thế quái nào cậu lại ăn mặc thế kia?”

Tôi đang mặc quần jeans xanh, áo len xanh nhạt có hình những con vịt vàng khè khắp áo, áo vét đỏ và giày tennis hồng. Thực tình thì cũng chẳng bất ngờ khi có ai đó cảm thấy cần tẩn cho tôi một trận.

“Đây là những gì tốt nhất tớ có thể kiếm lúc đó.” Tôi hi vọng rằng gã bị tôi lột đống đồ này đang ở gần nhà lúc đó. Trời đang dưới 0oC. “Tại sao cậu giao thiệp với mấy gã thanh niên đó?”

“Chúng tôi học chung trường luật.”

Chúng tôi đang đi ngang qua cửa sau của cửa hàng Quân đội - Hải quân, và tôi đối mặt với cảm giác thèm thuồng có được một bộ quần áo bình thường. Tôi quyết định mạo hiểm làm cho Gomez phát hoảng. Tôi biết cậu ấy sẽ chịu được. Tôi dừng lại. “Anh bạn. Việc này sẽ chỉ mất vài giây thôi. Tớ có chuyện phải làm. Cậu có thể đợi tớ ở cuối con hẻm được không?”

“Cậu định làm gì?”

“Không gì cả. Chỉ đột nhập thôi. Đừng để ý đến gã đàn ông đứng sau rèm nữa.”

“Tôi đi theo được không?”

“Không.” Cậu ấy lộ vẻ ỉu xìu. “Được rồi, nếu cậu muốn.” Tôi bước vào mái vòm che cửa sau. Đây là lần thứ ba tôi đột nhập vào nơi này, mặc dù hai lần khác vẫn còn ở tương lai so với hiện tại lúc này. Tôi đã rành nó như lòng bàn tay. Đầu tiên tôi mở tổ hợp khóa tầm thường đang giữ an toàn cho khung chắn ngang lối vào, đẩy khung chắn về phía sau, cậy ổ khóa Yale bằng lõi một cây bút cũ và cái kim băng tìm thấy lúc nãy ở đại lộ Belmot, rồi dùng mẩu nhôm giữa hai cánh cửa kép để đẩy then chốt bên trong. Voila! Tất cả mất khoảng ba phút. Gomez nhìn tôi bằng vẻ gần như thán phục.

“Cậu học nó ở đâu thế?”

“Chỉ là tài lẻ thôi”, tôi khiêm tốn đáp. Chúng tôi bước vào trong. Pa-nô đèn đỏ nhấp nháy giả bộ như hệ thống báo động, nhưng tôi biết thừa. Bên trong rất tối. Tôi nhớ lại sơ đồ cửa hàng và hàng hóa bên trong. “Đừng đụng vào thứ gì, Gomez.” Tôi muốn tỏ ra thân thiện và kín đáo. Tôi bước cẩn thận qua lối đi giữa căn phòng, và mắt tôi dần thích nghi với bóng tối. Tôi bắt đầu với quần trước: Levi’s đen. Tôi chọn một chiếc áo vải dệt xanh sẫm, áo choàng len màu đen nặng nề với lớp vải lót dày, tất len, quần đùi, găng tay leo núi và chiếc mũ cụp tai. Ở khu vực giày tôi tìm thấy, trong sự thỏa mãn tột cùng, đôi Docs hệt như của anh bạn Nick vừa đi. Tôi đã sẵn sàng hành động.

Trong khi đó, Gomez đang lởn vởn phía sau quầy thanh toán. “Đừng mất công”, tôi nói với cậy ấy. “Nơi này chẳng bao giờ để tiền mặt lại vào ban đêm đâu. Đi thôi.” Chúng tôi bỏ đi theo đúng cách chúng tôi đến. Tôi đóng cửa nhẹ nhàng và kéo khung chắn ngang lại. Tôi có bộ đồ đã mặc trước đó nằm gọn trong túi. Chốc nữa tôi sẽ thử tìm thùng chứa đồ quyên góp của Salvation Army. Gomez nhìn tôi chờ đợi, như một con chó đang chờ xem có còn thịt bữa trưa để ăn nữa không.

Nói mới nhớ. “Tớ đói rã cả rồi. Đi đến Ann Sather’s nhé.”

“Ann Sather’s? Tôi đang đợi cậu rủ đi cướp nhà băng hay ít nhất cũng là đi giết người. Cậu đang trên đà lăn, đừng dừng lại vào lúc này chứ!”

“Tớ phải nghỉ tiếp nhiên liệu. Đi thôi.” Chúng tôi băng từ con hẻm qua bãi đỗ xe của nhà hàng Thụy Điển Ann Sather’s. Nhân viên bảo vệ câm lặng, chào chúng tôi như thể chúng tôi đang du ngoạn ngang qua vương quốc của anh ta. Chúng tôi ra tới Belmont. Chỉ mới chín giờ tối, và con đường nhung nhúc những kẻ lữ khách thường lệ của nó, một tổ hợp những con người đang trốn chạy, những người vô gia cư tâm thần bất ổn, những người đi bar, và dân ngoại thành. Ann Sather’s nổi bật như một hòn đảo của sự bình thường giữa những quán hàng xăm và các tiệm bao cao su. Chúng tôi bước vào, và đứng ở tủ bánh ngọt đợi bàn. Bụng tôi réo ùng ục. Cách bài trí theo phong cách Thụy Điển rất dễ chịu, tất cả các tường được ốp ván gỗ vân đỏ xoáy. Chúng tôi được dẫn đến bàn ở khu vực được hút thuốc, ngay trước mặt lò sưởi. Chúng tôi cởi áo choàng, ngồi xuống và đọc thực đơn, cho dù với tư cách là người dân Chicago lâu năm, chúng tôi chắc hẳn có thể phổ nhạc và cùng hát nó từ trí nhớ. Gomez đặt tất cả đồ dùng hút thuốc của cậu ấy bên cạnh dao đĩa.

“Cậu không phiền chứ?”

“Có. Nhưng cứ tự nhiên.” Cái giá của việc làm bạn với Gomez là bị ướp trong những làn khói thuốc không ngừng tuôn ra từ lỗ mũi của cậu ấy. Các ngón tay của cậu ấy có màu hoàng thổ đậm; chúng đập nhẹ nhàng vào mảnh giấy mỏng trong lúc cậu ấy cuộn thuốc lá sợi hiệu Drum thành một khối trụ dày, liếm đầu giấy, xoắn nó lại và nhét nó vào giữa môi rồi châm thuốc. “A!” Đối với Gomez, nửa giờ đồng hồ mà không có thuốc là một điều bất thường. Tôi luôn thích thú ngắm người khác thỏa mãn sự khao khát của họ, ngay cả khi tôi không thể chia sẻ chúng.

“Cậu không hút thuốc? Bất kể loại gì?”

“Tớ chạy.”

“Ồ. Phải. Chết tiệt, cậu rất sung sức. Tôi đã tưởng cậu sẽ giết chết Nick, và cậu thậm chí đã không hề thở dốc.”

“Hắn quá say để chiến đấu. Chỉ là một đống bị thịt đờ đẫn chờ bị đánh.”

“Tại sao cậu làm gỏi cậu ta như thế?”

“Chuyện ngớ ngẩn thôi.” Bồi bàn xuất hiện, nói với chúng tôi rằng tên cậu ta là Lance và món đặc biệt hôm nay là cá hồi và đậu kem. Cậu ta ghi thực đơn đồ uống của chúng tôi rồi đi. Tôi mân mê hộp đựng sữa. “Hắn nhìn thấy bộ đồ tớ đã mặc, nghĩ rằng tớ là một miếng thịt dễ gặm, và muốn đập tớ một trận, không chịu thoái lui nên phải nhận chút ngạc nhiên. Tớ chỉ lo chuyện của mình, thực vậy.”

Gomez tỏ vẻ đăm chiêu. “Chuyện gì?”

“Gì cơ?”

“Henry. Tôi có thể trông như thằng đầu đất, nhưng ông cậu Gomez của cậu không phải không biết gì. Tôi đã chú ý đến cậu được một thời gian, chính xác là trước cả khi Clare bé nhỏ của chúng ta dẫn cậu về nhà. Ý tôi là, tôi không biết cậu có nhận ra hay không, nhưng cậu hoạt động trong một phạm vi nhất định. Tôi biết rất nhiều người biết cậu. Người, ừ, thì là đàn bà. Những quý bà, quý cô quen biết cậu.” Gomez liếc mắt nhìn tôi qua làn khói thuốc, “Họ nói một số điều khá kì quái.” Lance trở lại với cà phê của tôi và sữa cho Gomez. Chúng tôi gọi món: bánh hăm-bơ-gơ pho-mát và khoai tây chiên cho Gomez, súp đậu, cá hồi, khoai lang và hoa quả cho tôi. Tôi có cảm giác tôi sẽ ngã ngửa ngay lúc này nếu không có thật nhiều calo ngay lập tức. Lance nhanh chóng đi khỏi. Tôi chẳng bận tâm nhiều lắm đến những việc xấu xa tôi đã làm khi còn trẻ, nói gì đến giải thích chúng cho Gomez hiểu. Dù sao đó cũng chẳng phải việc của cậu ấy. Nhưng cậu ấy đang đợi câu trả lời của tôi. Tôi khuấy kem cho tan đều trong cốc cà phê, ngắm lớp bọt trắng trên mặt cốc tan biến trong mỗi lần khuấy. Tôi dẹp bỏ lo ngại. Tôi mặc kệ. Rốt cuộc thì cũng chẳng gì quan trọng.

“Cậu muốn biết gì nào, chiến hữu?”

“Mọi thứ. Tôi muốn biết tại sao anh thủ thư có vẻ ngoài hiền lành lại suýt đánh chết một gã say, chỉ vì chuyện vớ vẩn là ăn vận quần áo của gã giáo viên mầm non? Tôi muốn biết tại sao tám ngày trước Ingrid Carmichel tìm cách tự tử. Tôi muốn biết tại sao lúc này trông cậu già hơn mười tuổi so với lần tôi gặp cậu. Tóc cậu đang bạc đi. Tôi muốn biết tại sao Clare có ảnh của cậu trước cả khi cô ấy gặp cậu?”

Clare có ảnh của tôi trước năm 1991? Tôi đã không biết chuyện đó. Khỉ thật. “Ảnh đó trông như thế nào?”

Gomez đảo mắt nhìn tôi. “Giống với cậu hiện tại hơn là lúc cậu đến dùng bữa tối vài tuần trước.” Chỉ hai tuần trước? Chúa ạ, đây chỉ là lần thứ hai Gomez và tôi gặp mặt. “Nó được chụp ngoài trời. Cậu đang mỉm cười. Ngày tháng được ghi tít từ tháng Sáu, 1988.” Thức ăn được mang đến, và chúng tôi tạm dừng để sắp xếp chúng trên cái bàn nhỏ của mình. Tôi bắt đầu ăn như thể chẳng có ngày mai.

Gomez ngồi nhìn tôi ăn, chẳng thèm đụng đến thức ăn của mình. Tôi đã nhiều lần thấy Gomez giở chiêu với nhân chứng của đối phương tại các phiên tòa, giống hệt thế này. Cậu ấy chỉ đơn giản khiến họ phải tiết lộ bí mật. Tôi không phiền nếu phải giải thích, tôi chỉ muốn được ăn trước đã. Thực ra, tôi cần Gomez phải biết sự thật, vì cậu ấy sẽ không ngừng cứu cánh cho tôi trong những năm tới.

Tôi đã chén gần hết món cá hồi mà cậu ấy vẫn ngồi im. “Ăn đi, ăn đi”, tôi nói bằng giọng bắt chước bà Kim. Cậu ấy nhúng một cọng khoai tây chiên vào ketchup và nhai trệu trạo. “Đừng lo, tớ sẽ xưng tội. Nhưng để cho tớ ăn bữa cuối trong bình yên đã.” Cậu ấy đầu hàng và bắt đầu ăn món bơ-gơ của mình. Không ai trong chúng tôi nói nửa lời cho đến khi tôi ngốn xong đĩa hoa quả. Lance mang thêm cà phê đến. Tôi xăm xoi nó, khuấy nó. Gomez đang nhìn tôi như thể cậu ấy muốn túm lấy tôi và lắc mạnh. Tôi phì cười trước biểu hiện của cậu ấy.

“Được rồi. Của cậu đây: du hành thời gian.”

Gomez đảo mắt và nhăn mặt, nhưng không nói gì.

“Tớ là người du hành thời gian. Vào lúc này tớ đang 36 tuổi. Buổi trưa nay của tớ đang là ngày 9 tháng Năm, năm 2000. Đó là thứ Ba. Tớ đang ở nơi làm việc, chỉ vừa kết thúc buổi Show’N Tell cho một nhóm các thành viên Caxton Club, tớ đang đi đến giá để đặt sách trở lại thì đột nhiên thấy mình ở đường School, vào năm 1991. Như thường lệ, tớ gặp khó khăn trong việc tìm thứ gì đó để mặc. Tớ trốn dưới hiên nhà ai đó một lúc. Trời rất lạnh và không có ai đi ngang qua cả. Cuối cùng cũng có một cậu thanh niên trẻ, mặc đồ… cậu biết lúc nãy tớ mặc như thế nào rồi đấy. Tớ trấn lột cậu ta, lấy tiền và cả mọi thứ cậu ta đang mặc, chỉ trừ chiếc quần lót. Cậu ta sợ chết khiếp; có lẽ cậu ta tưởng tớ định cưỡng hiếp cậu ta hay sao đấy. Dù sao thì, tớ đã có quần áo. Nhưng ở khu vực này, cậu không thể ăn mặc như thế mà không bị hiểu lầm. Cả buổi tối tớ bị hàng tấn người gây sự, bạn cậu chỉ là giọt nước tràn ly. Tớ rất tiếc nếu anh ta bị thương nặng. Tớ đã rất muốn có được bộ quần áo của cậu ta, đặc biệt là đôi giày.” Gomez liếc xuống dưới bàn nhìn vào chân tôi. “Tớ thường xuyên thấy mình bị vướng vào những tình huống như vậy. Thực tình, có điều gì đó không ổn với tớ. Tớ bị lạc vào dòng thời gian mà không vì lý do nào cả. Tớ không thể kiểm soát nó, tớ không biết khi nào nó sẽ diễn ra, hay sẽ đến đâu và khi nào. Vậy nên, để thích ứng, tớ cậy khóa, ăn trộm, móc ví, trấn lột, ăn xin, đột nhập, ăn trộm xe, nói dối, trốn chui nhủi, hành hung và đánh đập. Bất kể việc gì cậu có thể nghĩ ra, tớ đều đã làm.”

“Giết người.”

“Theo tớ nhớ thì không. Tớ cũng chưa cưỡng hiếp ai bao giờ.” Tôi nhìn Gomez khi nói. Mặt cậu ấy không có biểu hiện gì hết. “Ingrid. Cậu có thực sự biết Ingrid?”

“Tôi biết Celia Attley.”

“Chúa nhân từ. Đúng là cậu làm bạn với toàn những người kì quái. Ingrid đã tìm cách tự sát như thế nào?”

“Dùng quá liều Valium.”

“1991? Hừm! Vậy đây là lần thứ tư Ingrid tự tử.”

“Cái gì?”

“À, cậu không biết việc đó? Celia là người chỉ cung cấp thông tin có chọn lọc. Thực ra Ingrid thành công trong việc tự sát vào ngày 2 tháng Một, năm 1994. Cô ấy bắn vào ngực mình.”

“Henry…”

“Cậu biết không, nó đã xảy ra sáu năm trước, và tớ vẫn rất giận cô ấy. Thật đáng tiếc. Nhưng cô ấy đã suy sụp trong một thời gian dài và thực sự bị chìm trong nỗi sầu muộn. Tớ chẳng thể làm được gì cho cô ấy. Đó là một trong những điều thường khiến chúng tớ cãi nhau.”

“Đây là một trò đùa bệnh hoạn, nhóc thủ thư ạ.”

“Cậu muốn có bằng chứng?”

Cậu ấy chỉ nhếch miệng cười.

“Bức ảnh đó thì sao? Bức ảnh mà anh bảo Clare sở hữu?”

Nụ cười biến mất. “Được rồi. Tôi thừa nhận tôi có chút thắc mắc về điều đó.”

“Tớ gặp Clare lần đầu tiên vào tháng Mười, 1991. Cô ấy gặp tớ lần đầu tiên vào tháng Chín, năm 1977. Lúc đó cô ấy sáu tuổi, tớ ba mươi tám. Cô ấy đã biết tớ suốt cuộc đời cô ấy. Vào năm 1991 tớ chỉ mới bắt đầu biết về cô ấy. Nhân tiện, cậu nên hỏi Clare về chuyện này. Cô ấy sẽ kể cho cậu nghe.”

“Tôi đã hỏi. Cô ấy đã kể.”

“Chết tiệt, Gomez. Cậu đang lãng phí thời gian quý báu, bắt tớ kể lại một lần nữa như vậy. Cậu không tin Clare sao?”

“Không. Liệu cậu có tin không nếu cậu là tôi?”

“Chắc rồi. Clare rất đáng tin. Đó là sự giáo dục tín ngưỡng của một tín đồ Công Giáo.” Lance lại gần rót thêm cà phê. Tôi đã say caffein, nhưng nhiều hơn nữa chẳng làm hại ai. “Vậy? Cậu cần bằng chứng gì?”

“Clare nói cậu tan biến.”

“Phải, Đó là một trong những trò kịch tính khác mà tớ biết làm. Bám lấy tớ như keo dính chuột, sớm hay muộn, tớ cũng sẽ tan biến. Có thể sẽ mất vài phút, vài giờ hoặc vài ngày, nhưng tớ rất đáng tin ở khoản đó.”

“Chúng ta có biết nhau ở năm 2000 không?”

“Có.” Tôi cười với cậu ấy. “Chúng ta là những người bạn tốt.”

“Nói cho tôi nghe về tương lai của tôi đi.”

Ồ, không. Ý tưởng tồi tệ. “Không.”

“Tại sao không?”

“Gomez, mọi việc sẽ diễn ra. Biết trước chỉ khiến chúng trở nên.. kì quái. Đằng nào cậu cũng không thể thay đổi được gì.”

“Tại sao?”

“Tính nhân quả chỉ chạy theo chiều xuôi. Mọi việc diễn ra một lần và chỉ một lần. Nếu cậu biết trước… trong hầu hết mọi trường hợp, tớ cảm thấy mình như bị mắc bẫy. Nếu cậu đang ở trong dòng thời gian và không biết gì… cậu sẽ tự do. Tin tớ đi.” Trông cậu ấy có vẻ nản chí. “Cậu sẽ là phù rể tại đám cưới của chúng tớ. Và tớ sẽ là phù rể của cậu. Cậu sẽ có cuộc sống tốt, Gomez ạ. Nhưng tớ sẽ không nói chi tiết cho cậu đâu.”

“Chút thông tin chứng khoán?”

Tại sao không. Ở năm 2000, thị trường chứng khoán thật điên khùng, nhưng có cả núi tiền để kiếm, và Gomez sẽ là một trong những người may mắn. “Đã từng nghe đến internet chưa. Đó là thứ dùng cho máy tính. Một hệ thống toàn cầu khổng lồ mà hầu như tất cả mọi người đều sử dụng, giao tiếp qua đường dây điện thoại nối với máy tính. Cậu sẽ muốn mua cổ phiếu công nghệ. Netscape, America Online, Sun Microsystems, Yahoo!, Microsoft, Amazon.com.” Cậu ấy ghi lại.

“Chấm com?”

“Đừng bận tâm đến nó. Cứ mua chúng khi IPO lên sàn.“ Tôi mỉm cười. “Vỗ tay vào nhau nếu cậu tin vào chuyện cổ tích.”

“Tôi tưởng cậu sẽ bổ đầu bất kì ai ám chỉ điều gì liên quan đến chuyện cổ tích tối nay?”

“Nó từ Peter Pan, đồ mù chữ”. Đột nhiên tôi cảm thấy buồn nôn. Tôi không muốn tạo ra cảnh náo loạn ở đây, vào lúc này. Tôi bật dậy. “Đi theo tớ”, tôi nói, chạy về phía phòng vệ sinh nam, Gomez bám theo sau. Mồ hôi chảy thành dòng trên mặt tôi. Tôi nôn thốc nôn tháo vào bồn rửa mặt. “Chúa ạ!” Gomez nói. “Chết tiệt, nhóc thủ…” nhưng tôi chẳng thể nghe được những gì còn lại mà cậu ấy chuẩn bị nói, vì tôi đang nằm trần truồng trên sàn nhà lạnh lẽo trong bóng tối. Tôi cảm thấy chóng mặt nên đã nằm đó một lúc. Tôi với tay ra và chạm vào gáy của những cuốn sách. Tôi đang trong thư viện Newberry. Tôi đứng dậy và lảo đảo đi tới cuối gian phòng và bật điện; ánh sáng tràn ngập giữa những chiếc giá sách, lóa mắt tôi. Quần áo của tôi và xe chở sách tôi đang sắp xếp ở gian bên cạnh. Tôi mặc quần áo vào, xếp sách lên rồi thận trọng mở cửa an toàn trong kho sách. Tôi không biết bây giờ là mấy giờ; chuông báo động có thể sẽ kêu lên. Nhưng không, mọi thứ vẫn như nó đã từng. Isabelle đang hướng dẫn sơ đồ phòng đọc cho một người đọc mới; Matt đi qua và vẫy tay chào. Mặt trời đang đổ nắng qua cửa sổ, và đồng hồ trong phòng đọc đang chỉ 4 giờ 15. Tôi biến mất chưa đầy 15 phút. Amelia nhìn thấy tôi và chỉ về phía cửa. “Tôi đi ra Starbucks. Anh có muốn một cốc không?”

“Không. Cảm ơn cô.” Tôi đang đau đầu ghê gớm. Tôi thò đầu vào văn phòng của Roberto và bảo ông ấy rằng tôi không được khỏe. Ông ấy gật đầu cảm thông, chỉ tay về chiếc điện thoại đang bắn ra những tràng tiếng Ý với tốc độ ánh sáng vào tai ông ấy. Tôi thu dọn đồ và ra về.

Chỉ là một ngày bình thường ở nơi làm việc của “nhóc thủ thư”.

Chủ Nhật, 15/12/1991 (Clare 20 tuổi)

CLARE: Đó là một buổi sáng thứ Bảy nắng đẹp, tôi đang trên đường về nhà từ căn hộ của Henry. Những con đường phủ đầy băng và ngập trong vài phân tuyết mới rơi. Mọi vật chìm trong một màu trắng sáng đến lóa mắt. Tôi đang hát theo Aretha Franklin, “R-E-S-P-E-C-T!” khi rẽ từ Addison qua Hoyne và nhìn thấy phía trước có chỗ đỗ xe. Hôm nay là ngày may mắn của tôi. Tôi đỗ xe, khéo léo đi qua vỉa hè trơn láng, bước vào tiền sảnh, miệng vẫn lẩm bẩm hát. Tôi có cảm giác lâng lâng mơ màng vì bắt đầu được ngủ cùng Henry, được thức dậy trên giường của anh ấy, được trở về nhà vào buổi sáng. Tôi trôi bồng bềnh qua những bậc thang. Chắc hẳn Charisse đang ở nhà thờ. Tôi nóng lòng được thảnh thơi tắm táp và cầm tờ New York Times. Ngay khi mở cửa, tôi không còn một mình nữa. Gomez đang ngồi ở phòng khách trong làn mây khói thuốc, rèm cửa đóng kín. Anh ấy chỉ ngồi yên đó, nên tôi bước về phòng mà không thèm chào hỏi. Tôi vẫn còn giận anh ấy.

“Clare.”

Tôi quay lại. “Gì?”

“Anh xin lỗi. Anh đã sai rồi.” Tôi chưa từng thấy Gomez thừa nhận mình sai bao giờ. Giọng anh ấy rền rĩ ồm ộp.

Tôi bước vào phòng khách và mở rèm cửa. Ánh nắng vất vả chui qua làn khói thuốc, nên tôi mở cửa sổ ra. “em không hiểu sao anh có thể hút thuốc nhiều đến thế này mà không làm thiết bị báo khói réo lên.”

Gomez giơ cục pin 9 volt lên. “Anh sẽ lắp nó lại trước khi về.”

Tôi ngồi xuống ghế trường kỉ. Tôi đợi cho Gomez nói tại sao anh ấy thay đổi chính kiến. Anh ấy cuộn một điếu thuốc khác, đốt nó lên và nhìn vào tôi.

“Anh đã ở bên cạnh anh chàng Henry của em cả đêm qua.”

“Em cũng vậy.”

“Thật sao? Bọn em đã làm gì?”

“Đi đến Facets, xem phim của Peter Greenaway, ăn món Ma-rốc và quay trở về căn hộ anh ấy.”

“Và em chỉ vừa rời đi.”

“Đúng vậy.”

“Buổi tối của anh thì không được lãng mạn bằng, nhưng kịch tính hơn. Anh đụng mặt anh chàng yêu đời của em trong một con hẻm cạnh Vic, đang nện Nick tới số. Sáng nay Trent nói với anh rằng Nick bị vỡ mũi, gãy ba cái xương sườn, năm cái ở xương tay, tổn thương cơ và phải khâu 46 mũi. Chưa kể cậu ấy sẽ cần một cái răng cửa mới nữa.” Tôi thản nhiên. Nick là một kẻ chuyên bắt nạt người khác. “Em phải nhìn mới thấy, Clare. Bạn trai em tẩn Nick như thể cậu ấy là một vật vô tri vô giác. Như thể Nick là một bức tượng anh ta đang tạc. Dồn hết sức vào nơi cần nện, BỤP. Anh sẽ rất ngưỡng một nếu nạn nhân không phải là Nick.”

“Tại sao Henry đánh Nick?”

Gomez tỏ vẻ không thoải mái. “Có vẻ như lỗi tại Nick. Cậu ấy thích bắt nạt… người đồng tính, và Henry đã ăn mặc như Bé Muffet đáng yêu.” Tôi có thể tưởng tượng. Tội nghiệp Henry.

“Và rồi?”

“Rồi bọn anh đột nhập cửa hàng đồ quân dụng”. Chưa có vấn đề gì.

“Và?”

“Rồi bọn anh đi đến Ann Sather’s dùng bữa tối.”

Tôi phì cười. Gomez cũng mỉm cười. “Rồi cậu ta kể cho anh nghe câu chuyện khùng điên mà em đã kể.”

“Vậy tại sao anh tin lời anh ấy?”

“Thì tại cái vẻ dửng dưng như không của cậu ta. Anh có thể thấy cậu ta biết anh khá rõ, từ trong ra ngoài. Và rồi cậu ta… tan biến, bỏ anh lại đó, và anh chỉ… không thể nào không tin.”

Tôi gật đầu cảm thông. “Việc biến mất khá ấn tượng nhỉ? Em vẫn còn nhớ đều đó từ lần đầu tiên gặp anh ấy, khi em còn nhỏ xíu. Một giây trước anh ấy còn bắt tay em, rồi, phụp! anh ấy biến mất. Mà này, anh ấy đến từ năm nào?”

“2000. Anh ta trông có vẻ già hơn rất nhiều.”

“Anh ấy phải trải qua nhiều khó khăn.” Thật dễ chịu khi có thể ngồi đây và nói về Henry với một người khác cũng biết chuyện. Một nỗi cảm kích với Gomez trào dâng rồi tan biến ngay khi anh ấy nhoài người về phía tôi và nói, vẻ nghiêm trọng. “Đừng lấy anh ta, Clare.”

“Anh ấy vẫn chưa hỏi em mà.”

“Em biết ý anh đấy.”

Tôi ngồi lặng thinh, nhìn đôi bàn tay của chính mình yên lặng siết chặt vào đùi. Tôi thấy lạnh và giận dữ. Tôi ngước lên. Gomez nhìn tôi lo âu.

“Em yêu Henry. Anh ấy là cuộc sống của em. Em đã đợi anh ấy cả cuộc đời này, và giờ, anh ấy đã ở đây.” Tôi không biết phải giải thích thế nào. “Với Henry, em có thể thấy mọi việc được bày ra, như một tấm bản đồ, quá khứ và tương lai, mọi việc đồng nhất, như thiên thần…” Tôi lắc đầu. Tôi không thể lý giải bằng lời. “Em có thể với tới anh ấy và chạm vào thời gian… anh ấy yêu em. Bọn em sẽ kết hôn bởi vì… bọn em là một phần của nhau…” Tôi ấp úng. “Nó đã diễn ra rồi. Tất cả đồng nhất.” Tôi liếc nhìn Gomez để xem những lời tôi nói có nghĩa gì không.

“Clare. Anh thích Henry, rất nhiều. Cậu ta rất thú vị. Nhưng cậu ta nguy hiểm lắm. Tất cả những người đàn bà ở bên cậu ta đều trở nên suy sụp. Anh chỉ không muốn em vô tình ngã vào vòng tay của tên khùng quyến rũ này…”

“Anh không thấy đã quá muộn rồi sao? Anh đang nói về người em đã biết từ khi lên sáu. Em biết Henry. Anh chỉ gặp anh ấy có hai lần và anh đang cố thuyết phục em nhảy khỏi chuyến tàu. Em không thể. Em đã nhìn thấy tương lai của mình; em không thể thay đổi nó, và ngay cả khi có thể em cũng không muốn.”

Gomez có vẻ đăm chiêu. “Cậu ta nhất quyết không nói cho anh về tương lai của anh.”

“Henry quan tâm đến anh; anh ấy không muốn làm vậy với anh.”

“Cậu ta đã làm vậy với em.”

“Điều đó không thể thay đổi; cuộc sống của bọn em rối vào nhau. Cả tuổi thơ của em khác biệt vì anh ấy, và anh ấy chẳng thể làm gì khác. Anh ấy đã cố gắng hết sức có thể.” Tôi nghe tiếng chìa khóa phòng của Charisse đang xoay ổ khóa.

“Clare, đừng giận… anh chỉ đang cố giúp em.”

Tôi mỉm cười với anh ấy. “Anh có thể giúp được bọn em. Rồi anh sẽ thấy.”

Charisse vừa ho vừa bước vào. “Ồ, anh yêu. Anh đã đợi lâu chưa?”

“Anh đang nói chuyện với Clare. Về Henry.”

“Em chắc rằng anh đang nói với cậu ấy rằng anh quý Henry đến mức nào”, Charisse nói bằng giọng cảnh cáo.

“Anh đang bảo cô ấy chạy càng xa càng tốt, về hướng ngược lại.”

“Ôi, Gomez. Clare, đừng nghe lời anh ấy. Khẩu vị đàn ông của anh ấy dở tệ.” Charisse nghiêm nghị ngồi xuống chỉ cách Gomez một bàn chân, Gomez đưa tay ra lôi cậu ấy vào đùi. Charisse liếc xéo.

“Cô ấy luôn thế này mỗi khi đi nhà thờ về.”

“Em muốn ăn sáng.”

“Dĩ nhiên em muốn, con bồ câu bé nhỏ.” Họ đứng dậy và lướt dọc hành lang vào trong bếp. Không lâu sau đó Charisse bật lên những tràng khúc khích lanh lảnh và Gomez cố tét vào mông cậu ấy bằng cuốn tạp chí Times. Tôi thở dài và đi về phòng mình. Mặt trời vẫn chiếu sáng. Tôi xả nước nóng vào chiếc bồn tắm cũ khổng lồ và trút bỏ bộ quần áo tối qua. Trong lúc trèo vào bồn, tôi bắt gặp hình ảnh của chính mình trong gương. Khá đẫy đà. Nó khiến tôi phấn chấn lên nhiều; tôi trầm mình trong nước, cảm thấy mình như cung phi trong tranh của Ingres. Henry yêu tôi. Cuối cùng Henry cũng ở đây, vào lúc này. Và tôi yêu anh ấy. Tôi đưa tay vuốt ngực, một làn bọt mỏng bị nước kéo đi rồi phân tán. Tại sao mọi chuyện phải trở nên phức tạp? Chẳng phải phần phức tạp đã bị bỏ lại sau lưng chúng tôi rồi sao? Tôi dìm tóc xuống nước, ngắm nó bồng bềnh xung quanh mình, tối sẫm và trông như mạng nhện. Mình chưa bao giờ chọn Henry, anh ấy cũng chưa bao giờ chọn mình. Vậy thì tại sao nó có thể là sai lầm được? Lại một lần nữa tôi đối mặt với thực tế rằng chúng tôi không thể biết. Tôi nằm đó trong bồn tắm, nhìn chăm chăm vào những viên gạch lát phía trên bàn chân, cho đến khi nước trở nên nguội lạnh. Charisse gõ cửa và hỏi có phải tôi đã chết rồi không, cậu ấy có thể vào đánh răng chứ? Khi đang quấn tóc vào khăn, tôi thấy mình mờ ảo trong gương vì hơi nước và thời gian có vẻ như cuộn lại trong chính nó; tôi thấy mình như một tổ hợp của những ngày, những tháng năm cũ và tất cả thời gian tương lai đang tới. Đột nhiên tôi cảm thấy mình như đã trở nên vô hình. Nhưng rồi cảm giác đó tan biến nhanh như khi nó đến; tôi đứng yên trong một thoáng, rồi khoác lên mình chiếc áo choàng tắm, mở cửa bước ra ngoài

Thứ Bảy, 22/12/1991 (Henry 28 tuổi và Henry 33 tuổi)

HENRY: Chuông cửa kêu lúc 5 giờ 25 phút sáng luôn là điềm xấu. Tôi lảo đảo đi đến hệ thống điện thoại nội bộ và nhấn nút.

“Ai đấy?”

“Cho tôi vào.” Tôi nhấn nút một lần nữa và tiếng chuông khủng khiếp, biểu thị Chào mừng đến tổ ấm của tôi truyền qua đường dây. Bốn lăm giây sau tiếng thang máy kêu lên leng keng và bắt đầu đi lên. Tôi trùm áo choàng ngủ vào người, ra ngoài và đứng ở hành lang nhìn thang máy chuyển động qua ô cửa kính an toàn nhỏ, Chiếc lồng chim khổng lồ bay lượn lọt vào tầm mắt rồi dừng lại, và dĩ nhiên, người đứng trong đó là tôi.

Anh ta mở cửa lồng và bước vào hành lang, trần truồng, râu ria chưa được cạo, tóc rất ngắn. Chúng tôi nhanh chóng băng qua hành lang im lìm và chuồn vào trong căn hộ. Tôi đóng cửa lại, chúng tôi đứng nhìn nhau trong khoảnh khắc.

“Sao?” Tôi nói, chỉ để cho có. “Mọi việc thế nào?”

“Bình thường. Hôm nay ngày bao nhiêu?”

“22 tháng Mười Hai, năm 1991. Thứ Bảy.”

“Ồ! Violent Femmes ở Aragon tối nay hả?”

“Phải.”

Anh ta cười. “Chết tiệt. Đó là một buổi tối mới kinh khủng làm sao.” Anh ta đi về phía giường của tôi và trèo lên, kéo chăn trùm quá đầu. Tôi thả mình xuống bên cạnh.

“Này.” Không có tiếng phản hồi. “Anh từ đâu đến?”

“13 tháng Mười Một, năm 1996. Tôi đang nằm trên giường của mình. Nên để cho tôi ngủ chút đi, hoặc cậu sẽ hối tiếc sau 5 năm nữa đấy.”

Nghe cũng hợp tình hợp lý. Tôi cởi áo choàng ngủ và quay trở lại giường. Tôi đang nằm sai phía, đây là phía của Clare, như cách tôi vẫn gọi nó gần đây, vì bản sao của tôi đã chiếm đoạt chỗ thường ngày của tôi.

Mọi thứ đều khác khi nằm ở bên này của giường. Như thể khi bạn nhắm một mắt lại và nhìn thứ gì đó thật gần một lúc, rồi lại nhìn nó bằng con mắt còn lại. Tôi nằm đó hết nhìn vào chiếc ghế bành của mình với đống quần áo đặt trên bậu cửa sổ, rồi qua mu bàn tay phải của mình. Móng tay tôi cần phải cắt và căn hộ của tôi có thể đủ tiêu chuẩn cho quỹ viện trợ tai ương Bang. Có thể bản sao của tôi sẽ sẵn lòng góp sức, giúp đỡ dọn dẹp căn hộ một chút để trả công trú ngụ. Tôi nhẩm tính số đồ có trong tủ lạnh và chạn thức ăn rồi đi đến kết luận chúng tôi dự trữ đủ. Tôi đang tính đưa Clare về đây tối nay, nhưng không biết phải làm gì với cái thân thể thừa ra của tôi này. Tôi chợt nghĩ có lẽ Clare thích được ở bên phiên bản về sau này hơn, vì rốt cuộc họ biết nhau rõ hơn. Chẳng hiểu sao điều này khiến tôi rầu rĩ. Tôi cố nghĩ rằng bất cứ điều gì đang thiếu lúc này sẽ được bổ sung về sau, nhưng vẫn không khỏi cáu kỉnh và ước giá mà một trong hai chúng tôi biến đi nơi khác.

Tôi quan sát bản sao của mình. Anh ta đang cuộn tròn như một con nhím, quay lưng lại phía tôi, say sưa ngủ. Tôi ghen tỵ với anh ta. Anh ta là tôi, nhưng tôi chưa là anh ta. Anh ta đã trải qua 5 năm cuộc đời mà vẫn còn là một ẩn số đối với tôi, một điều bí ẩn đang cuộn mình chờ đợi để nhảy ra và cắn xé. Dĩ nhiên, bất kể khoái lạc có thể hưởng nào, anh ta đều đã hưởng; còn với tôi, chúng đang đợi như một hộp sô-cô-la chưa đụng tới.

Tôi cố hình dung anh ta dưới con mắt của Clare. Tại sao phải tóc ngắn? Tôi luôn tự hào về mái tóc đen ngang vai lượn sóng của mình; tôi đã để kiểu tóc này từ khi còn học phổ thông. Nhưng sớm hay muộn, tôi cũng sẽ cắt bỏ nó. Tôi chợt nhận ra mái tóc này là một trong những điều gợi nhắc cho Clare biết rằng tôi không hẳn là người đàn ông cô ấy đã biết từ những năm tháng tuổi thơ của cô ấy. Tôi chỉ là một bản thể gần đúng mà cô ấy đang ngầm dẫn lối đi đến con người tôi tồn tại trong mắt cô ấy. Tôi sẽ ra sao nếu không có cô ấy?

Sẽ không phải là người đàn ông đang thở sâu, từ tốn, và chậm rãi phía bên kia giường. Cổ và lưng của anh ta lượn sóng những đốt sống lưng và xương sườn. Da anh ta nhẵn thín, hầu như chẳng có sợi lông nào, được gắn khéo léo chắc nịch vào những thớ thịt và xương. Anh ta đang mệt lả, vậy mà vẫn ngủ như thể bất cứ giây phút nào anh ta sẽ có thể bật dậy mà chạy. Tôi trông có căng thẳng thế này? Chắc vậy. Clare vẫn thường phàn nàn rằng tôi không chịu thoải mái cho đến khi tôi cạn kiệt sức lực, nhưng thực ra tôi thường rất thoải mái mỗi khi ở bên cô ấy. Bản thể tôi già hơn này gầy và mệt mỏi hơn, săn chắc và tự tin hơn. Nhưng trước mặt tôi, anh ta có thể thành thực, anh ta hiểu tôi tường tận đến mức tôi chỉ có thể bằng lòng chấp nhận, vì lợi ích của chính tôi.

Đã là 7 giờ 14 phút, tất nhiên tôi không thể ngủ được nữa. Tôi bước xuống giường và bật máy pha cà phê. Tôi mặc quần lót và quần thun vào rồi vươn vai. Gần đây hai đầu gối của tôi đau nhức, nên tôi lót tấm đệm quanh chúng. Tôi đi tất và xỏ đôi giày chạy bộ tả tơi mà nhiều khả năng là nguyên nhân đau đầu gối vào, tự hứa sẽ đi mua đôi giày mới vào ngày mai. Đáng lẽ tôi nên hỏi vị khách của tôi thời tiết bên ngoài thế nào. Mà thôi, tháng Mười Hai ở Chicago, thời tiết tệ hại là điều không tránh khỏi. Tôi mặc vào chiếc áo phông Lễ hội Phim Chicago cổ lỗ sỉ, áo len chui đầu màu đen, và áo ấm dài tay màu cam có mũ trùm với hai chữ X ở trước và sau làm bằng băng keo phản quang. Tôi chộp đôi găng tay và chùm chìa khóa rồi đi ra ngoài, vào trong ngày mới.

Hôm nay không phải một ngày xấu trời như những ngày đầu đông vài hôm trước. Chỉ có rất ít tuyết trên mặt đường, và những cơn gió đang đùa giỡn với chúng, đẩy chúng chạy vòng quanh. Giao thông đang tắc nghẽn trên đường Dearborn, tạo nên một dàn nhạc âm thanh động cơ; bầu trời xám xịt như màu tro.

Tôi buộc chùm chìa khóa vào giày và quyết định chạy quanh hồ. Tôi chạy từ từ theo hướng đông từ Delaware qua đại lộ Michigan, qua cầu vượt, và bắt đầu tăng tốc bên cạnh đường dành cho xe đạp, tiến về phía bắc dọc bờ biển đường Cây Sồi. Chỉ có những người thực sự mê chạy và người đi xe đạp ra ngoài hôm nay. Hồ Michigan đặc một màu xám xịt; thủy triều đang xuống để lộ ra một dải cát màu nâu đậm. Những con hải âu đang bay lượn vòng quanh trên đầu tôi và tít xa giữa hồ. Tôi chuyển động khó nhọc; cái lạnh không bao giờ nương nhẹ cho khớp xương, tôi nhận ra trời khá lạnh ở đây, quanh hồ, có lẽ dưới 20oF. Nên tôi chạy chậm hơn bình thường một chút, làm nóng người, gợi nhắc cho hai đầu gối và hai mắt cá đáng thương của tôi rằng công việc cả đời của chúng là mang tôi đi thật xa và thật nhanh theo yêu cầu. Tôi có thể cảm nhận được không khí khô lạnh đang tràn ngập trong phổi, thấy tim bình thản đập, và khi ra tới đại lộ Phía Bắc tôi cảm thấy khỏe khoắn hơn nên đã bắt đầu tăng tốc độ. Chạy có nhiều ý nghĩa đối với tôi: sinh tồn, sự yên bình, phấn khích và độc lập. Nó là bằng chứng sự tồn tại hữu hình của tôi, của khả năng điều khiển chuyển động qua không gian mà không phải thời gian, của sự phục tùng, dù chỉ tạm thời, của cơ thể tôi trong tự do ý muốn chính tôi, Trong lúc chạy, tôi thở ra không khí và mọi vật cứ thế đến rồi đi xung quanh tôi, và con đường chuyển động như một bộ phim đèn chiếu dưới chân tôi. Tôi vẫn nhớ, hồi còn nhỏ, rất lâu trước khi có trò chơi điện tử và mạng Internet, tôi vẫn lắp những bộ phim đèn chiếu vào máy chiếu tồi tàn ở thư viện trường và chăm chú ngồi xem, vặn núm điều chỉnh hình ảnh sau một tiếng bíp. Tôi không còn nhớ chúng như thế nào hay chúng nói về điều gì, nhưng tôi vẫn nhớ mùi của thư viện, nhớ cách tôi nhảy dựng mỗi khi tiếng bíp vang lên. Tôi đang bay trong cảm giác đê mê đó, như thể tôi có thể chạy trên không khí, và tôi không thể bị đánh gục, không gì có thể cản tôi lại, không gì có thể, không gì có thể, không gì có thể…

Buổi tối cùng ngày (Henry 28 và 33, Clare 20)

CLARE: Chúng tôi đang trên đường đến nhạc hội Violent Femmes ở Aragon Ballroom. Sau một hồi miễn cưỡng từ phía Henry mà tôi không thể hiểu tại sao, vì anh ấy yêu Femmes, chúng tôi lượn quanh Uptown để tìm chỗ đậu xe. Tôi cứ đi lòng vòng mãi, qua Green Mill, qua các quán bar, qua những tòa căn hộ lờ mờ sáng và các cửa hiệu giặt tự động trông như những sân khấu sáng đèn. Cuối cùng tôi cũng đỗ được xe ở Argyle và chúng tôi lẩy bẩy đi bộ qua những vỉa hè lồi lõm. Henry đi rất nhanh, tôi luôn hết hơi mỗi khi chúng tôi đi bộ cùng nhau. Tôi để ý thấy anh ấy đang cố gắng đi cùng nhịp với tôi. Tôi tháo găng tay ra và đút tay vào túi áo choàng của anh ấy, anh ấy quàng tay qua vai tôi. Tôi rất hứng khởi vì Henry và tôi chưa bao giờ đi khiêu vũ trước đó; tôi lại rất thích Aragon, trong vẻ Tây Ban Nha tráng lệ suy tàn giả tạo của nó. Ngoại Meagram vẫn thường kể cho tôi nghe về các buổi khiêu vũ với các ban nhạc lớn ở đây vào những năm ba mươi, lúc mọi thứ vẫn còn mới mẻ và đáng yêu, chẳng có ai nổ súng trên ban công, và chẳng có những vũng nước tiểu trong phòng vệ sinh nam. Nhưng c’est la vie [1], thời thế thay đổi, và chúng ta ở đây, trong hiện tại.

[1] C’est la vie (tiếng Pháp): Đó là cuộc sống.

Chúng tôi đứng xếp hàng trong vài phút. Henry có vẻ căng thẳng, trong tình trạng cảnh giác. Anh ấy nắm tay tôi nhưng mắt liếc nhìn khắp đám đông. Tôi tranh thủ cơ hội để ngắm anh ấy. Henry thật đẹp. Tóc anh ấy dài ngang vai, chải ngược về phía sau, đen và bóng mượt. Anh ấy như một con mèo, mảnh dẻ, luôn toát ra vẻ bồn chồn và manh động. Anh ấy trông như thể sẽ không ngần ngại cắn bạn. Henry đang mặc áo choàng đen, áo sơ mi cotton trắng, cổ tay kiểu Pháp đang để lỏng, đung đưa dưới cổ tay áo choàng, một chiếc cà vạt bằng tơ màu xanh nõn chuối đáng yêu mà anh ấy để lỏng chỉ vừa đủ để tôi có thể nhìn thấy cơ bắp trên cổ, quần jeans đen và giày đế mềm cổ cao màu đen. Henry đưa tay vuốt tóc tôi và giữ nó quanh cổ tay. Trong khoảnh khắc, tôi là tù nhân của anh ấy, rồi mọi người trong hàng di chuyển về phía trước và anh ấy để tôi đi.

Chúng tôi đưa vé ra soát và ùa cùng đám đông đi vào trong tòa nhà. The Aragon có nhiều sảnh dài, hốc vòm và ban công bao quanh đại sảnh, rất lý tưởng để lẩn trốn hoặc đi lạc. Henry và tôi đi lên ban công gần sân khấu rồi ngồi xuống một cái bàn nhỏ xíu. Chúng tôi cởi áo khoác ra. Henry đang nhìn tôi chằm chằm.

“Trông em thật đáng yêu. Chiếc váy rất đẹp; nhưng anh không thể tin em có thể khiêu vũ khi mặc nó.”

Tôi đang mặc chiếc váy tơ tằm màu hoa tử đinh hương bó sát, chỉ duỗi ra vừa đủ để di chuyển. Tôi đã mặc thử nó trước gương buổi trưa nay và nó ổn. Điều khiến tôi lo ngại là mái tóc; vì không khí khô hanh của mùa đông nên nó trông có vẻ như dày gấp đôi bình thường. Tôi đưa tay vén nó lên thì Henry ngăn tôi lại.

“Đừng. Anh muốn ngắm em khi xõa tóc.”

Màn biểu diễn chuẩn bị bắt đầu. Chúng tôi kiên nhẫn lắng nghe. Mọi người đang lượn lờ quẩn quanh, nói chuyện và hút thuốc. Không có ghế ngồi dưới tầng chính. Tiếng ồn thật khủng khiếp.

Henry nhoài người và hét vào tai tôi. “Em có muốn uống gì không?”

“Cô-ca được rồi ạ.”

Anh ấy đi đến quầy bar. Tôi đặt tay lên rào chắn của ban công và ngắm đám đông. Các cô gái trong những bộ váy cổ điển, trong những bộ đồ chiến, các chàng trai để tóc mào gà, trong những chiếc áo vải dệt. Người cả hai giới trong áo phông và quần jeans. Các thanh niên đại học và người tuổi hai mươi, xen lẫn một số người đứng tuổi lác đác xung quanh.

Henry đã đi khá lâu. Màn trình diễn của ban nhạc mở màn đã kết thúc, rải rác có tiếng vỗ tay, các nhân viên kỹ thuật bắt đầu dọn nhạc cụ của ban nhạc lùi vào trong tường và đang mang ra một đống những nhạc cụ tương tự khác. Cuối cùng tôi mệt mỏi vì chờ đợi; bỏ rơi đống đồ đạc và bàn chúng tôi ngồi, tôi nép mình đi qua dòng người xuống những bậc thang và tiến vào tiền sảnh lờ mờ sáng nơi quầy bar được sắp xếp. Henry không có ở đó. Tôi di chuyển chậm rãi qua những đại sảnh và mái vòm, tìm kiếm nhưng gắng tỏ vẻ như đang không tìm kiếm.

Tôi nhìn thấy anh ấy ở cuối đại sảnh. Anh ấy đang đứng rất gần một người phụ nữ khác mà ban đầu tôi tưởng rằng họ đang ôm nhau; cô ấy đứng tựa vào tường, còn Henry đang rướn người về phía cô ấy, tay đặt trên mảng tường phía trên vai cô gái. Sự thân mật trong tư thế của họ khiến tôi như muốn ngừng thở. Cô ấy tóc vàng, có vẻ đẹp Đức, cao và rất rực rỡ.

Khi tiến đến gần hơn, tôi nhận ra không phải họ đang hôn nhau mà là đang cãi nhau. Henry đang dùng tay còn lại để nhấn mạnh bất cứ điều gì anh ấy đang thét vào mặt cô ấy. Đột nhiên khuôn mặt bình thản của cô ấy chuyển sang giận dữ, chực òa khóc. Cô ấy hét điều gì đó trở lại. Henry lùi lại và vung tay lên trời. Tôi nghe được những điều cuối cùng Henry nói trong lúc anh ấy bỏ đi: “Anh không thể, Ingrid, anh không thể. Anh rất tiếc…”

“Henry! Cô ấy đuổi theo Henry, rồi cả hai người họ nhìn thấy tôi đang đứng trơ giữa hành lang. Henry rầu rĩ nắm tay tôi và chúng tôi bước nhanh quay trở lại cầu thang. Khi bước lên đến bậc thứ ba, tôi quay người lại và thấy cô gái đang đứng đó nhìn chúng tôi, tay cô ấy buông lỏng hai bên, bất lực và căng thẳng. Henry liếc nhìn, chúng tôi quay người trở lại và tiếp tục đi lên những bậc thang.

Chúng tôi tìm thấy bàn của mình vẫn còn trống một cách kì diệu và áo choàng vẫn còn nguyên. Đèn vòm dịu xuống và Henry cao giọng giữa tiếng ồn của đám đông. “Anh xin lỗi. Anh chưa kịp tới quầy bar, anh gặp Ingrid và…”

Ingrid là ai? Tôi nghĩ đến hình ảnh chính mình lúc đứng trong phòng tắm nhà Henry với thỏi son trên tay và tôi cần phải biết, nhưng bóng tối bao trùm và Violent Femmes bước lên sân khấu.

Gordon Gano đứng trước microphone liếc nhìn tất cả chúng tôi, âm nhạc vang lên rồi anh ấy rướn người về phía trước và ngân nga đoạn mở đầu của Blister in the Sun. Henry và tôi ngồi lắng nghe, rồi anh ấy nhoài người lại gần tôi, hét lên hỏi, “Em có muốn về không?” Sàn nhảy đang rầm rập tiếng ồn của đám đông.

“Em muốn nhảy!”

Henry có vẻ nhẹ nhõm. “Tuyệt! Phải rồi! Hãy nhảy nào!” Anh ấy cởi bỏ cà vạt và nhét nó vào túi áo choàng. Chúng tôi đi xuống tầng dưới và bước vào đại sảnh chính. Tôi thấy Charisse và Gomez đang nhún nhảy cùng nhau. Charisse dĩ nhiên đang cuồng dại, còn Gomez hầu như chẳng di chuyển chút nào, điếu thuốc vẫn bập bùng trên môi. Anh ấy nhìn thấy tôi và khẽ vẫy tay. Di chuyển vào đám đông giống như lội xuống hồ Michigan; chúng tôi bị cuốn vào và dạt theo dòng người, trôi nổi lại gần sân khấu. Đám đông đang rống lên Nữa đi! Nữa đi! và Femmes trả lời bằng cách tấn công nhạc cụ của họ điên cuồng mãnh liệt. Henry đang chuyển động, lắc lư theo tiếng bass. Chúng tôi ở ngay rìa đám người náo loạn, những người đang nhảy hết tốc lực ở một phía, phía bên kia là những người đang lắc hông, tay đập xuống không ngừng theo giai điệu.

Chúng tôi nhảy. Âm nhạc chạy qua tôi, những đợt sóng âm chộp lấy tôi đến tận xương tủy, di chuyển chân tôi, hông và vai tôi mà chẳng cần hỏi ý kiến não bộ. (Hỡi cô gái xinh đẹp, tôi yêu chiếc váy của cô, nụ cười nữ sinh rạng rỡ, ồ phải, cô ấy đâu rồi, tôi chẳng rõ). Tôi mở mắt ra và thấy Henry đang nhìn tôi trong khi nhảy. Khi tôi đưa tay lên, anh ấy ôm ghì lấy hông tôi và nhấc bổng tôi lên. Tôi có thể nhìn toàn cảnh của sàn nhảy. Ai đó vẫy tay với tôi nhưng trước khi tôi có thể nhận dạng Henry đã đặt tôi xuống trở lại. Chúng tôi nhảy gần nhau, chúng tôi nhảy xa nhau. (Làm sao tôi có thể giải thích nỗi đau riêng mình?). Mồ hôi đang chảy ròng ròng. Henry lắc đầu, mái tóc của anh ấy tạo nên một màng đen mờ ảo và mồ hôi của anh ấy bắn khắp người tôi. Âm nhạc đang thúc giục, nhạo báng những người hiện hữu (Tôi chẳng có gì nhiều để sống cho, tôi chẳng có gì nhiều để sống cho, tôi chẳng có gì nhiều để sống cho). Chúng tôi ném mình vào từng điệu nhạc. Thân thể tôi giãn nở, hai chân tôi tê dại, và cảm giác nóng nực tràn từ háng cho đến đỉnh đầu. Mái tóc tôi là những dải dây ướt át dính chặt vào tay, cổ, mặt và lưng. Tiếng nhạc nện vào tường và dừng lại. Tim tôi đập thình thịch. Tôi đưa tay lên ngực Henry và ngạc nhiên khi thấy nó chỉ hơi trật nhịp.

Vài phút sau, tôi bước vào nhà vệ sinh nữ và thấy Ingrid đang ngồi khóc trên bệ. Một người phụ nữ da màu nhỏ nhắn với mái tóc dài cuốn lọn đẹp tuyệt vời đang ngồi trước mặt Ingrid, nhỏ nhẹ nói và vuốt tóc cô ấy. Tiếng sụt sịt của Ingrid vọng lại từ những viên gạch lát ẩm ướt màu vàng. Tôi đi ra khỏi phòng và sự chuyển động của tôi đã thu hút sự chú ý của họ. Họ nhìn tôi. Ingrid trông nhếch nhác. Tất cả vẻ đẹp Đức của cô ấy đã biến mất, khuôn mặt cô ấy đỏ và sưng húp, đồ trang điểm của cô ấy chảy từng vệt dài trên má. Cô ấy nhìn tôi chằm chằm, trống trải và kiệt quệ. Người phụ nữ da đen bước lại gần tôi. Cô ấy thanh tú, mỏng manh, tối và buồn. Cô ấy đứng rất gần, nói khẽ.

“Em gái”, cô ấy nói, “em tên gì?”

Tôi ngần ngại. “Clare”, cuối cùng tôi đáp.

Cô ấy ngoái lại nhìn Ingrid. “Clare. Một lời khuyên chân thành, em đang lởn vởn nơi em không được chào đón. Henry, anh ấy là một kẻ tồi tệ, nhưng là kẻ tồi tệ của Ingrid; em sẽ là một kẻ khờ nếu định vui đùa cùng anh ta. Hiểu chị nói gì không?”

Tôi không muốn biết nhưng tôi không thể ngăn nổi mình. “Chị đang nói gì vậy?”

“Họ đã chuẩn bị kết hôn. Rồi Henry tháo chạy, nói với Ingrid rằng anh ta xin lỗi. Mà quên đi. Chị đã bảo Ingrid rằng không ở bên anh ta sẽ tốt hơn cho cô ấy, nhưng cô ấy không chịu nghe. Anh ta đối xử với cô ấy thật tệ, vùi đầu vào uống như thể họ không còn sản xuất rượu nữa, biến mất hằng ngày dài rồi lại xuất hiện như chưa từng có việc gì xảy ra, làm tình với bất cứ thứ gì đứng yên đủ lâu. Henry là người như thế đấy. Khi anh ta khiến em khóc lóc rên rỉ, đừng nói rằng không có ai cảnh báo em.” Cô ấy quay đi đột ngột và bước trở lại bên cạnh Ingrid, người vẫn đang nhìn tôi chằm chằm, với vẻ tuyệt vọng khôn cùng.

“Tôi xin lỗi”, tôi nói, rồi bỏ chạy.

Tôi lang thang quanh các đại sảnh, rồi cuối cùng cũng tìm được một góc vòm trống chỉ có mình cô gái trẻ ăn vận theo mốt của thập niên 80, đang lăn ra bất tỉnh trên chiếc tràng kỉ bằng nhựa với điếu thuốc đang cháy trên tay. Tôi lấy điếu thuốc ra khỏi tay cô gái và dúi nó vào một viên gạch dơ dáy. Tôi ngồi trên thành ghế, âm nhạc rúng động từ xương cụt lên tận xương tủy của tôi. Tôi có thể cảm nhận được nó bằng răng của mình. Tôi vẫn cần phải đi vệ sinh và đầu tôi đau như búa bổ. Tôi muốn khóc. Tôi không hiểu chuyện gì vừa mới xảy ra. Chính xác là, tôi hiểu nhưng không biết phải làm gì với nó. Tôi không biết liệu tôi có nên quên nó đi, hay giận dữ với Henry và yêu cầu một sự giải thích. Tôi đã trông đợi gì chứ? Tôi ước gì mình có thể gửi một tấm thiệp đến quá khứ, đến Henry ti tiện mà tôi chẳng biết gì này: Đừng làm gì cả, hãy đợi em. Ước gì anh ở đây giờ này.

Henry thò đầu vào. “Em đây rồi. Anh tưởng đã lạc mất em.”

Tóc ngắn. Hoặc là Henry đã cắt tóc trong nửa giờ đồng hồ vừa rồi, hoặc tôi đang nhìn thấy người lạc giữa dòng thời gian yêu thích của mình. Tôi nhảy dựng lên và bổ nhào vào anh ấy.

“Ối… xin chào, anh cũng rất mừng được gặp em…”

“Em nhớ anh…” giờ thì tôi đang khóc.

“Em đã ở bên anh không rời trong nhiều tuần lễ.”

“Em biết, nhưng… anh chưa phải là anh… ý em là, anh rất khác. Chết tiệt.” Tôi tựa vào tường và Henry tựa vào tôi. Chúng tôi hôn nhau, rồi Henry bắt đầu liếm mặt tôi như một con mèo mẹ. Tôi cố kêu rừ...ừ...ừ rồi phá lên cười. “Anh thật đê tiện. Anh đang cố làm em xao nhãng khỏi những hành vi bỉ ổi của anh…”

“Hành vi nào? Anh đã không biết về sự tồn tại của em. Anh đã hẹn hò Ingrid trong buồn rầu. Rồi anh gặp em. Anh đã chia tay Ingrid trong vòng chỉ chưa đến 24 giờ đồng hồ sau đó. Ý anh là, sự bội tín không có hiệu lực đối với những hành vi trong quá khứ.”

“Cô ta nói…”

“Ai nói?”

“Người phụ nữ da đen.” Tôi ra dấu tóc dài. “Lùn, mắt to, tóc xoăn từng lọn…”

“Ôi Chúa ơi. Đó là Celia Attley. Cô ta căm ghét anh. Cô ta yêu Ingrid.”

“Cô ta nói anh đang chuẩn bị kết hôn cùng Ingrid. Rằng anh say xỉn tối ngày, quan hệ lăng nhăng, cơ bản bảo rằng anh là một người tồi tệ và em nên bỏ chạy càng xa càng tốt. Đó là những gì cô ta nói.”

Henry bị giằng xé giữa sự khôi hài và ngờ vực. “Thì, một số điều trên là đúng, Anh đã khá lăng nhăng, và anh nổi tiếng là bợm rượu. Nhưng bọn anh không đính hôn cùng nhau. Anh không điên đến mức muốn cưới Ingrid. Bọn anh chỉ tận hưởng cảm giác khốn khổ cùng nhau.”

“Nhưng tại sao…”

“Clare, rất ít người gặp tri kỉ của họ ở tuổi lên sáu. Vậy nên em phải giải khuây bằng cách nào đó. Và Ingrid đã rất… kiên nhẫn. Quá kiên nhẫn. Sẵn sàng chấp nhận những hành vi kỳ quái của anh, hy vọng một ngày anh sẽ tu chỉnh và cưới kẻ đọa đầy là cô ấy. Và khi có ai đó kiên nhẫn như vậy với mình, em sẽ phải thấy cảm kích và không muốn làm tổn thương họ. Những điều này có lý chút nào không?”

“Có lẽ. Ý em là, không, không có đối với em. Em không suy nghĩ theo lối đó.”

Henry thở dài. “Rất quyến rũ khi em có thể mông muội trong logic hủ nát của hầu hết các mối quan hệ như vậy. Tin anh đi. Khi chúng ta gặp nhau, anh đã là một mớ hoang tàn, tồi tệ và đáng bị nguyền rủa. Anh đã dần trấn tĩnh lại vì anh có thể thấy rằng em là một con người và anh cũng muốn được làm một con người. Anh đã cố gắng làm điều đó mà không để em nhận ra, vì anh vẫn chưa nhận ra tất cả sự giả vờ đó là vô nghĩa giữa chúng ta. Đó là một quãng đường dài để đi từ con người mà em đang đối mặt ở năm 1991 đến anh, người đang nói chuyện với em vào lúc này, đến từ năm 1996. Em phải cố gắng cùng anh; anh không thể đến đó chỉ dựa vào sức mình.”

“Vâng, nhưng thật khó khăn. Em không quen làm một cô giáo.”

“Cứ mỗi khi em cảm thấy nản chí, hãy nghĩ đến tất cả thời gian anh đã dành, đang dành cho con người bé xíu của em. Dạy toán, thực vật học, đánh vần và lịch sử nước Mỹ. Ý anh là, em có thể nói những điều tồi tệ về anh bằng tiếng Pháp vì anh đã ngồi đó và nhồi nhét chúng vào đầu em.”

“Quả đúng vậy. Il a les defaults de ses qualities [2]. Nhưng em cược rằng dạy những điều đó dễ dàng hơn nhiều so với chuyện dạy cách làm thế nào để hạnh phúc.”

[2] Il a les defaults de ses qualities (tiếng Pháp): Trong ưu điểm có những nhược điểm

“Nhưng em làm anh hạnh phúc. Giữ được hạnh phúc mới là phần khó khăn.” Henry đang nghịch tóc tôi, cuộn chúng lại thành từng nút nhỏ. “Nghe này, Clare, anh sẽ trả em lại cho thằng đần em đến đây cùng. Cậu ta đang ngồi rầu rĩ trên ban công và tự hỏi em ở đâu.”

Tôi nhận ra rằng tôi đã quên bẵng Henry hiện tại của mình để mải mê trong niềm hân hoan vì được gặp người cũ, Henry của tương lai, và tôi cảm thấy xấu hổ. Tôi bỗng có niềm ham muốn mãnh liệt gần như của một bà mẹ muốn dỗ dành cậu bé lạ lẫm đang trên đường trở thành người đàn ông đứng trước mặt tôi lúc này, người hôn tôi và bỏ tôi lại với lời khiển trách, dặn tôi phải tử tế hơn. Trong lúc bước lên cầu thang, tôi nhìn Henry tương lai của mình hòa vào đám đông cuồng nhiệt, và tôi di chuyển như thể đang ở trong một giấc mơ để tìm Henry của tôi ở đây, vào lúc này.

footer(); ?>